Danh sách chuyên khoa

Danh sách dịch vụ

Hiểu rõ hơn về giới tính và chuyển giới

Trước đây, chúng ta hầu như chỉ nhắc đến một xã hội với những gia đình là sự kết hợp giữa một nam và một nữ với mục đích duy trì nòi giống. Khi đó, việc một người yêu người cùng giới tính hay mong muốn có giới tính khác là những điều rất kỳ lạ, thậm chí bị xem là bệnh hoạn.

1. Định nghĩa giới tính và giới

Giới tính là đặc điểm sinh học tạo nên sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới. Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất, nghĩa là giữa nam và nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có những sự khác biệt như nhau về mặt sinh học, không thể thay đổi được giữa nam và nữ, do các yếu tố sinh học quyết định. Ví dụ, phụ nữ có bộ phận sinh dục nữ và có thể mang bầu, sinh con và cho bú bằng chính bầu sữa của mình, còn nam giới có bộ phận sinh dục nam và có thể sản xuất ra tinh trùng.

Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể thay đổi được. Ví dụ. Phụ nữ cũng có thể mạnh mẽ và quyết đoán, trở thành lãnh đạo, phi công, thợ máy...

Ngược lại nam giới có thể dịu dàng và kiên nhẫn, có thể làm đầu bếp, nhân viên đánh máy, thư ký v.v. Những đặc điểm có thể hoán đổi đó là những khái niệm, nếp nghĩ và tiêu chuẩn mang tính chất xã hội. Chúng thay đổi từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định. Vì vậy, địa vị của người phụ nữ phương Tây khác với địa vị của người phụ nữ phương Đông, địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam khác với địa vị xã hội của phụ nữ Hồi giáo, địa vị của phụ nữ nông thôn khác với địa vị của phụ nữ vùng thành thị.

2. Thông tin cơ bản về chuyển giới

Từ "Chuyển giới" bao hàm nhiều nghĩa hơn mà mọi người có thể nhận ra. Nó bao gồm một loạt các đặc điểm nhận dạng và biểu hiện giới có thể nằm suy nghĩ của phần lớn mọi người có thể được phân loại là chỉ một trong hai giới tính - nam hoặc nữ (giới tính nhị phân).

Có hai dạng người chuyển giới là: Người chuyển giới nam sang nữ (male to female) và người chuyển giới nữ sang nam (female to male). Ở góc độ xu hướng tính dục, có thể phân chia thành người chuyển giới đồng tính (ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ và chỉ yêu nữ giới), người chuyển giới song tính (ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ và có thể yêu cả nam giới và nữ giới) và người chuyển giới dị tính (ví dụ người chuyển giới từ nữ sang nam và chỉ yêu nữ giới).

Trong xã hội, không phải ai cũng có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về người chuyển giới. Dưới đây là một số nét cơ bản về người chuyển giới:

  • Người chuyển giới được sinh ra với một giới tính sinh học bình thường, hoàn chỉnh (phân biệt rõ là nam hay nữ) nhưng lại có cảm nhận và mong muốn giới tính của mình không trùng với giới tính sinh học đang có.
  • Không cần phải phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì mới được xem là người chuyển giới. Một người có nhận thức, mong muốn có giới tính ngược lại so với giới tính sinh học của mình sẽ được xem là người chuyển giới. Ở một số quốc gia, người chuyển giới không cần phẫu thuật vẫn có thể được thay đổi giới tờ tùy thân. Tuy nhiên, một số quốc gia khác yêu cầu phải phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì mới được thừa nhận. Có thể nhận thấy mặc dù người chuyển giới và chuyển đổi giới tính tồn tại ở mọi xã hội, mọi nơi trên thế giới nhưng những khái niệm này vẫn được hiểu một cách khá nhầm lẫn và gây lúng túng ngay cả với những người trong cuộc khi không thể xác định bản dạng giới của mình. Nhìn chung, “transgender” là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng .
  • Đa số các trường hợp như nam giới thường hay giả/cải trang làm nữ giới hoặc ngược lại là người chuyển giới. Trừ một số người cải trang thành người có giới tính khác để phục vụ nhu cầu công việc/giải trí (họ có thể là người dị tính, đồng tính hoặc song tính) thì đa số những người này đều là người chuyển giới. Như đã nêu, vì người chuyển giới nhận thức, mong muốn có giới tính ngược lại nên họ đã cải trang như vậy. Trong trường hợp này, họ không phẫu thuật chuyển đổi giới tính vì pháp luật chưa cho phép hoặc không có điều kiện kinh tế. Cũng có nhiều người cho rằng người chuyển giới là điều bất bình thường, nam không ra nam, nữ không ra nữ. Đôi khi, một số người còn xem mong muốn được sống đúng giới tính của người chuyển giới là sự bệnh hoạn, không tự nhiên, không thể chấp nhận được. Nhiều gia đình khi biết con mình là người chuyển giới đã ép con phải sống đúng với giới tính khi được sinh ra, giam lỏng, không cho họ tiếp xúc với xã hội bên ngoài...

Tuy vậy, bản dạng giới của người chuyển giới là một điều tự nhiên, không thể thay đổi và họ có nhu cầu can thiệp y tế đối với cơ thể để phù hợp với bản dạng giới của mình. Đối với người chuyển giới, họ phải đối mặt với sự kỳ thị từ xã hội nặng nề hơn so với người đồng tính hay song tính.

Một nguyên nhân rất quan trọng của tình trạng này là do phần đông người chuyển giới không thể che giấu bản dạng giới của mình, khi thể hiện thì rất rõ ràng (ví dụ như người chuyển giới từ nam sang nữ thường hay cải trang thành nữ, dùng son phấn...) nên bị lộ nhiều hơn so với người đồng tính (ít nói ra xu hướng tính dục với người khác, thường chỉ thể hiện trong suy nghĩ hoặc giấu người xung quanh, dù có yêu người cùng giới tính cũng không thể hiện qua vẻ bề ngoài như người chuyển giới). Bên cạnh đó, nhiều người chuyển giới (ví dụ nam sang nữ) khi chưa tiến hành phẫu thuật thường thích đóng giả nữ, sử dụng son phấn khiến nhiều người trong xã hội hiểu nhầm họ là người đồng tính.

Chính điều này đôi khi làm cho người đồng tính kỳ thị người chuyển giới vì cho rằng người chuyển giới làm cho xã hội hiểu nhầm về đồng tính. Nhiều người chuyển giới đã phẫu thuật chuyển giới nhưng chưa được pháp luật và xã hội thừa nhận nên khó tiếp cận với các dịch vụ y tế, khó kiếm việc làm... Đôi khi một số người chuyển giới (đã phẫu thuật) vì chưa được đổi lại giấy tờ tùy thân nên khó khăn trong các quan hệ dân sự, xã hội hoặc bị xâm hại cơ thể nhưng không được bảo vệ thích đáng. Bản thân những người chuyển giới ở những quốc gia đã thừa nhận về mặt pháp lý nhưng trong đời sống xã hội họ vẫn có cuộc sống hết sức khó khăn. Điều này xuất phát phần lớn từ định kiến của xã hội.

Việc ghi nhận quan hệ sống chung của cặp đôi cùng giới là vấn đề nóng nhất của người đồng tính, bị chi phối bởi nhiều yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống... Hiện nay trên thế giới có ba hình thức sống chung của người đồng tính được ghi nhận: Quyền kết hôn bình đẳng, kết hợp dân sự (sống chung có đăng ký), sống chung không có đăng ký. Thời gian qua, Liên hợp quốc cũng đã ghi nhận quan niệm về một phạm vi rộng rãi trong việc xác thực những tiến triển (thay vì cố định) của định nghĩa về gia đình. Thực tế cho thấy những người ủng hộ hôn nhân cùng giới dựa trên quyền chung của con người, bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu bình thường hóa mối quan hệ LGBT (Viết tắt tiếng Anh của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới. (lesbian, gay, bisexual & transgender) và LGBTI là từ kết hợp LGBT và “I” là “intersex” (người liên giới tính).

Những người phản đối thường dựa vào việc từ hôn nhân có bao gồm cả các cặp cùng giới hay không. Các lý do khác là tác động trực tiếp và gián tiếp của hôn nhân cùng giới, vấn đề con cái, nền tảng tôn giáo, truyền thống và chủ nghĩa độc tôn dị tính. Nhiều người ủng hộ hôn nhân cùng giới cho rằng sự phản đối hôn nhân cùng giới là do chứng ghê sợ đồng tính luyến ái. Chấm dứt kỳ thị trong tiếp cận hôn nhân dân sự đã trở thành vấn đề bức bách ở nhiều quốc gia.

Bài viết tham khảo nguồn: Mayoclinic.org

Hiểu rõ hơn về giới tính và chuyển giới
Hotline0812217575