Thuốc ELTVIR dùng chống phơi nhiễm hoặc điều trị HIV
- Chống nguy cơ lây nhiễm vi rút HIV
- Ức chế sự nhân lên của virus HIV và kìm hãm lượng virus
- Phục hồi chức năng miễn dịch
- Cải thiện chất lượng sống và tăng thời gian sống cho người bệnh
- Ngăn cản sự tiến triển HIV sang AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV
Giá niêm yết: 1.100.000đ/ hộp
Mua hàng trực tuyến TẠI ĐÂY
Phơi nhiễm HIV là gì? Cách xử lý khi bị phơi nhiễm HIV
Phơi nhiễm HIV
Theo định nghĩa của Bộ Y tế thì phơi nhiễm HIV là thuật ngữ dùng để chỉ sự tiếp xúc niêm mạc hay da của người không bị bệnh với máu, mô hay các dịch cơ thể của người khác dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV. Trong cuộc sống bạn có thể gặp phải những trường hợp được gọi là phơi nhiễm HIV do:
-
Quan hệ tình dục không an toàn, quan hệ tình dục đồng tính.... (chiếm đa số các ca phơi nhiễm hiện nay).
-
Bị kim đâm vào khi làm thủ thuật y tế tiêm truyền hoặc lấy máu làm xét nghiệm.
-
Vết thương do dao mổ hay các dụng cụ sắc nhọn chọc, đâm vào gây chảy máu.
-
Bị tổn thương qua da do các ống đựng máu hoặc chất dịch của người bệnh bị vỡ đâm vào.
-
Máu, chất dịch của người có HIV hoặc nghi nhiễm HIV bắn vào các vùng da bị tổn thương, vào niêm mạc (mắt, mũi, họng).
-
Bị người khác dùng kim tiêm đã sử dụng có máu (có chứa virus HIV) đâm vào, hoặc những người trong khi làm nhiệm vụ (công an, bác sỹ…) cấp cứu tai nạn giao thông, bắt tội phạm…
Cách xử lý
Bước 1: Xử lý vết thương tại chỗ, đối với tổn thương da dẫn đến chảy máu: Xối ngay vết thương dưới vòi nước chảy. Để vết thương tự chảy máu trong một thời gian ngắn mà không nặn bóp. Rửa kỹ bằng xà phòng và nước sạch, sau đó sát trùng bằng các dung dịch sát khuẩn (Dakin, Javel 1/10, hoặc cồn 700) trong thời gian ít nhất 5 phút.
Trường hợp phơi nhiễm qua niêm mạc mắt: Rửa mắt bằng nước cất hoặc nước muối NaCl 0,9% liên tục trong 5 phút.
Phơi nhiễm qua miệng, mũi: Rửa, nhỏ mũi bằng nước cất hoặc dung dịch NaCl 0,9 %. Xúc miệng bằng dung dịch NaCl 0,9 % nhiều lần.
Bước 2: Báo cáo người phụ trách và làm biên bản. Chú ý nêu rõ ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra, đánh giá vết thương, mức độ nguy cơ của phơi nhiễm.
Bước 3: Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm theo mức độ nông sâu của tổn thương và diện tích tiếp xúc.
Bước 4: Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm. Thông thường nhân viên y tế sẽ tư vấn cho những người bị phơi nhiễm nên tham gia xét nghiệm HIV. Trong tình huống người này đã biết về tình trạng nhiễm, cần thu thập thông tin liên quan đến điều trị ARV của họ.
Bước 5: Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm bằng xét nghiệm.
Bước 6: Tư vấn cho người bị phơi nhiễm về nguy cơ nhiễm bệnh, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, thuốc và tác dụng phụ, quy trình theo dõi….
Bước 7: Điều trị dự phòng bằng thuốc ARV liên tục trong 4 tuần. Tất cả các trường hợp phơi nhiễm có nguy cơ cần được chỉ định điều trị ARV càng sớm càng tốt, từ 2-6 giờ tính từ lúc phơi nhiễm và không quá 72 giờ. Song song với việc đánh giá tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm và người bị phơi nhiễm, tùy trường hợp, bác sĩ có thể tiếp tục điều trị cho đủ 4 tuần hay ngưng điều trị ARV tuỳ trường hợp.
Bước 8: Theo dõi bằng xét nghiệm kiểm tra sau một tháng, 3 tháng và 6 tháng. Trên bình diện cộng đồng, khi có phơi nhiễm, cần nhanh chóng thực hiện xử trí vết thương tại chỗ (nếu có) theo hướng dẫn trong bước 1. Tiếp đó cần nhanh chóng tiếp cận với cơ sở y tế có chuyên khoa nhiễm HIV (như bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh thành, khoa tham vấn hỗ trợ cộng đồng). Nếu khai thác được thông tin từ nguồn gây phơi nhiễm, cần lưu ý đến phác đồ điều trị ARV của họ. Các bước còn lại của quy trình sẽ do nhân viên y tế tại cơ sở hỗ trợ.
Thuốc ELTVIR (ARV) đặc trị phơi nhiễm hoặc điều trị HIV
Thuốc ELTVIR (ARV) dùng cho bệnh nhân bị Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, tên đầy đủ của HIV là Human Immunodeficiency Virus Infection / Acquired Immunodeficiency Syndrome hoặc viết tắt theo tiếng Pháp là SIDA (Syndrome d'immunodéficience acquise). Người bị nhiễm vi rút HIV nghĩa là bị bệnh liệt kháng hay suy giảm khả năng đề kháng bệnh tật, đó là bệnh sủa hệ miễn dịch bị suy giảm, gây ra bởi vi rút HIV. Vì vậy khả năng chống lại bệnh tật cơ thể tăng lên hay khi bị bệnh thì hệ thống miễn dịch bị yếu nên bệnh nhân dễ bị mắc phải nhiễm trùng, nhiễm trùng các khối u v.v. . Ai cũng có bệnh và nguy cơ nhưng đối với người khỏe mạnh, hệ miễn dịch khỏe mạnh thì vượt qua và ngược lại khi đã bị HIV thì vết thương nhỏ cũng trở thành nghiêm trọng.
Thuốc ARV được nghiên cứu và sản xuất nhằm làm giảm sự sinh sôi nảy nở của vi rút HIV trong cơ thể. Nếu điều trị ARV hiệu quả thì có thể làm chậm sự tiến triển hoàn toàn của AIDS trong nhiều năm, làm giảm nguy cơ lây truyền và làm tăng chất lượng sống của người nhiễm HIV/AIDS.
1. Thành phần của thuốc ELTVIR:
Efavirenz: .....................600mg
Lamivudine: ..................300mg
Tenofovir: ......................300mg
Thuốc ELTVIR sản xuất bởi Hereto tại Ấn Độ
2. Tác dụng của ARV:
– Chống nguy cơ lây nhiễm vi rút HIV khi người bị phơi nhiễm như quan hệ không an toàn, dùng chung kim tiêm với đối tượng đã nhiễm HIV.
- Ức chế sự nhân lên của virus HIV và kìm hãm lượng virus trong máu ở mức thấp nhất. Thuốc ARV không chữa khỏi hoàn toàn bệnh HIV.
– Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc và tử vong doc các bệnh nhiễm trùng cơ hội ở bênh nhân nhiễm HIV.
– Cải thiện chất lượng sống và tăng thời gian sống cho người bệnh.
– Ngăn cản sự tiến triển HIV sang AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV.
3. Nguyên tắc khi sử dụng ARV:
– Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS.
– Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người bệnh có đủ tiêu chuẩn lâm sàng hoặc xét nghiệm và người bệnh đã sẵn sàng điều trị.
– Bất cứ phác đồ điều trị nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc. Điều trị ARV là điều trị suốt đời, người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt đối để đảm bảo hiệu quả và tránh kháng thuốc.
– Người nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm virus cho người khác.
– Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa phục hồi cần tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
– Tùy thuộc vào sự sẵn có của thuốc, tình trạng của người bệnh, các nhà chuyên môn sẽ lựa chọn các phác đồ điều trị tương thích theo công thức trên.
Các dấu hiệu chứng tỏ người bệnh có đáp ứng với điều trị ARV
– Sức khỏe được cải thiện: tăng căn, thèm ăn trở lại và ăn ngon miệng hơn, thể trạng, tâm lý tốt hơn, người bệnh có nhiều sức hơn để thực hiện các hoạt động hằng ngày.
– Các triệu chứng liên quan đến bệnh HIV được cải thiện.
– Các bệnh nhiễm trùng cơ hội có từ trước được cải thiện, giảm tần suất mắc và mức độ nặng của các nhiễm trùng cơ hội.
LƯU Ý KHI SỬ DỤNG THUỐC ARV
1. Tác dụng phụ của thuốc ARV
Một số độc tính, tác dụng phụ khác của thuốc ARV có thể gặp khi điều trị như:
– Một số bệnh nhân cảm thấy nhức đầu khó chịu khi uống các viên đầu tiên, sau này cơ thể quen dần và tác dụng phụ giảm đi
– Bệnh lý thần kinh ngoại vi: Biểu hiện rối loạn cảm giác ngoại vi, chủ yếu đầu chi, đi lại khó khăn. Thường gặp khi dùng d4T, ddI, các thuốc kháng Retroviruss non-nucleosid. Cần dùng vitamin B liều cao, nếu nặng phải thay thế thuốc.
– Viêm tụy: Gặp khi dùng ddI, d4T. Cần dừng ngay thuốc và thay bằng ZDV.
– Phân bố lại mỡ: Khi dùng ddI, thuốc ức chế proteases. Biểu hiện tăng tích tụ mỡ ở ngực, bụng, lưng, gáy; teo mô mỡ ở cánh tay, cẳng chân, mông, má.
– Độc cho gan: NPV, EFV, ZDV và thuốc ức chế proteases rất độc với gan, gây hủy hoại tế bào gan, tăng men gan. Cần ngừng thuốc nếu có tăng men gan gấp 5 lần bình thường.
– Độc với thần kinh trung ương: EFV biểu hiện lẫn lộn, rối loạn tâm thần, trầm cảm. Cần dừng và thay thế thuốc khi bệnh nhân có vấn đề về tâm thần kinh.
Điều trị thuốc kháng ARV cho những người có HIV là điều trị suốt đời,chính vì vậy, thời điểm thích hợp nhất để người có HIV bắt đầu tham gia điều trị là khi có chỉ định của bác sỹ và khi thực sự sẵn sàng tham gia vào việc điều trị. Thuốc ARV làm giảm quá trình sinh sôi của virus HIV trong cơ thể, làm giảm quá trình từ HIV sang AIDS, phục hồi hệ thống miễn dịch cho cơ thể. Điều trị bằng ARV là một quá trình lâu dài và phức tạp nên người bệnh cần tuân thủ đúng phác đồ điều trị của bác sĩ.
2. Điều cần biết về ARV
Hiện nay, thế giới vẫn chưa tìm ra thuốc chữa khỏi HIV/AIDS nên điều trị bằng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) được coi như là điều trị đặc hiệu bởi vì điều trị bằng ARV làm ức chế sự nhân lên của vi rút do đó duy trì được lượng vi rút thấp nhất trong máu, thông qua đó cũng duy trì được tình trạng bình thường của hệ miễn dịch. Khi hệ miễn dịch chưa bị suy giảm thì không có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc chỉ mắc ở mức độ nhẹ.
Trong trường hợp hệ miễn dịch của người nhiễm HIV đã bị suy giảm, nhờ ARV kiềm chế sự nhân lên của HIV mà hệ miễn được phục hồi trở lại, đồng thời làm giảm khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội cho người nhiễm HIV. Nhờ vậy, giúp người nhiễm HIV tiếp tục sống khỏe mạnh, lâu dài như mọi người.
Tổ chức Y tế thế giới đã có các nghiên cứu chỉ ra rằng người nhiễm HIV điều trị ARV sớm và duy trì điều trị tốt cũng có tuổi thọ không thua kém người không nhiễm HIV. Người nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1990 đến nay vẫn sống khỏe mạnh do được tiếp cận điều trị ARV kịp thời.
Việc điều trị bằng ARV kịp thời còn giúp cải thiện chất lượng sống cho người bệnh. Khi người nhiễm HIV khỏe mạnh, họ có khả năng lao động và làm việc như người không nhiễm HIV và tự tin sống hòa nhập với cộng đồng.
Điều trị ARV kịp thời sẽ giảm nguy cơ tiến triển AIDS (mắc các nhiễm trùng cơ hội) và tử vong ở người nhiễm HIV. Đặc biệt là giảm nguy cơ làm bệnh lao bùng phát.